Thành Cổ Loa (còn gọi là Loa Thành) là một toà thành cổ vào hàng bậc nhất của nước ta, được Thục Phán – An Dương Vương xây dựng vào thế kỷ thứ 3 trước công nguyên để làm kinh đô, lúc bấy giờ nước ta được gọi tên là Âu Lạc. Nay thành thuộc địa phận huyện Đông Anh, tp Hà Nội.
Âu Lạc là kinh đô thứ 2, sau kinh đô thứ nhất là Phong Châu (của thời đại các vua Hùng dựng nước, ngày nay có vị trí ở Phú Thọ).
Thành Cổ Loa được kể là tiền thân của thủ đô Hà Nội, dù trải qua 2.300 năm, dấu vết vẫn còn với ba vòng thành bằng đất. Các nhà khảo cổ tìm được hàng vạn mũi tên đồng, rìu cày, rìu sắt, xương thú vật tại một nơi cách xa trung tâm thành phố Hà Nội chỉ có 18km. Nơi đó là xã Cổ Loa, thuộc huyện Đông Anh.
Kiến Trúc Thành Cổ Loa Dưới Thời An Dương Vương.
Kinh thành xưa được gọi là Loa Thành vì vua An Dương Vương cho xây thành theo kiểu vòng ốc gồm 3 vòng: thành ngoài, thành giữa và thành trong. Dưới thành ngoài là hào sâu ngập nước, thuyền ghe có thể di chuyển xuôi được.
Vào giữa thế kỷ thứ 3 trước công nguyên, Thục Phán thay vua hùng dựng nước Âu Lạc, đóng đô ở Cổ Loa. Toà thành bằng đất, tương truyền có tới 9 vòng tường, chu vi 9 dặm. Luỹ thành mặt ngoài dựng đúng, mặt trong thoai thoải. Ba lớp thành ngoài khép kín uốn lượn theo dòng Hoàng Giang, ngoài luỹ là hào, lấy sông Hoàng làm hào tự nhiên cùng những hào đào để bảo dảm việc giữ gìn thành luỹ. Các hào này dài hơn 8km. Dân chúng lưu thông được trong hào để mua bán. Kinh đô nằm trong cùng dài 2km.
Chung quanh thành từ thành ngoài, thành giữa và thành trong mỗi nơi đều có các ụ canh phòng ra ngoài. Thành có 4 cửa chính ở hướng Đông, Tây, Nam, Bắc. Cửa phía Nam được mở ra để làm đường giao thông chính (ra quốc lộ 2 bây giờ)
Đây là kiến trúc vào thời An Dương Vương. Hơn 23 thế kỷ, thành cổ Loa đã thay đổi rất nhiều qua các giai đoạn lịch sử:
– Đầu tiên là kinh đô của nhà Thục – An Dương Vương. Sau khi đổi tên nước từ Văn Lang của thời các vua Hùng sang tên gọi mới là Âu Lạc.
– Các triều đại về sau vẫn sử dụng Cổ Loa làm kinh thành.
– Đầu thế kỷ thứ 7 sau công nguyên, Lý phật Tử đóng quân ở đây để chống nhà Tuỳ.
– Thế kỷ thứ 10 sau công nguyên, Ngô Quyền xây dựng lại Cổ Loa làm kinh đô.
Ngày nay, quần thể Cổ Loa vẫn còn khá đồ sộ, dài 16km đường thành, có đền thờ An Dương Vương, nhà bia ghi hép các giai đoạn lịch sử của Cổ Loa bên đền thượng, am bà chúa Mỵ Nương, đình “Ngự triều di quy” là nơi vua làm việc, ngự xạ đài, nơi vua ngự duyệt quân binh, cây đa trên 1000 năm ở trước am Mỵ Châu, miếu thờ thần kim Quy, giếng Ngọc, hồ Ngọc Tĩnh, chùa Bảo Sơn (có trên trăm pho tượng cổ, đẹp) loa cóc (hình thù con cóc miệng phu nước)…
Xã Cổ Loa hiện còn lưu dấu ba vòng thành đất. Thành trong hình chữ nhật có chu vi 1,6km, thành giữa hình đa giác chu vi 6,5km và thành ngoài 8km. Thân thành còn lại đến ngày nay có chiều cao trung bình từ 4 đến 5m, có chổ còn cao tới 12m, chân thành rộng tới 20m. Như vậy, người ta hiểu rằng vào thời xưa chắc hẳn thành phải cao và dày hơn nhiều. Điều này cũng làm cho người ta rất ngạc nhiên khi thấy toà thành này khá kiên cố so với thời kỳ mà vũ khí chỉ là gươm, giáo, cung tên và đá.
Các cửa của ba vòng thành cũng được bố trí rất khéo léo, không nằm cùng trên một trục thẳng mà chéo lệch hướng nhau khá nhiều. Do vậy, đường nối các cửa thành ở cùng một hướng đều là một đường quanh co, có ụ phòng ngự ở hai bên, gây nhiều trở ngại cho địch khi tấn công thành.
Truyền Thuyết Mỵ Châu – Trọng Thuỷ.
Nhận định về tình thế đất nước thời ấy, ngày nay nhiều người quan niệm rằng thành Cổ Loa cũng là một sân khấu chính trị đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, với chuyện tình Trọng Thuỷ, Mỵ Châu mà hậu quả là vua Thục Phán đã bị mất nước về tay Triệu Đà, một tướng lãnh của Tần Thuỷ Hoàng, chỉ vì con gái là Mỵ Châu công chúa quá nhje dạ dễ tin, không cảnh giác làm mất nỏ thần về tay Trọng Thuỷ con trai của Triệu Đà, một “gián điệp” thời xưa, theo mưa mô sắp đặt của Triệu Đà. Đây là bài học kinh nghiệm vè chính trị đầu tiên trong lịch sử Việt nam và “chiếc nỏ thần” được thời nay coi như là “bí mật kỹ thuật quân sự” của quốc gia.
Du khách tới thăm xã Cổ loa, khi qua cổng làng cũng là cổng chính của thành trong, sẽ tới đình làng Cổ Loa. Theo lời kể lại, đây là nền cũ của điện “ngự triều”, nơi bá quan triều hội ngày xưa, cho nên trong đình còn tấm hoành phi mang bốn cư “Ngự triều di quy”.
Còn có một khu di tích ở Ba Cầu. Người ta đã phát hiện trong lòng đất một kho vũ khí có tới hàng vạn mũi tên đồng có ba ngạnh – liệu đây có phải là cơ sở vật chất của truyền thuyết “nỏ thần” ?
cạnh đình làng, am Bà Chúa, tức miếu thờ công chúa Mỵ Châu, nằm nép dưới gốc đa già cổ thụ. Ngôi miếu khá nhỏ, bên trong một tảng đá hình người cụt đầu, ai ai cũng nói đó là tượng Mỵ Châu. Ngày xưa, Thục phán – An Dương Vương vì tức giận con gái đã làm mất chiếc nỏ thần lại còn rắc lông ngỗng ở dọc đường cho Trọng Thuỷ dẫn quân giặc đuổi theo, đã rút gươm chém ngừoi con gái yêu của mình.
Thăm Quan Thành Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội.
Hình ảnh: lễ hội Cổ Loa.
Qua miếu này, du khách tới đền Thượng, tức là đền thờ An Dương Vương – Thục Phán. Người ta cho biết đền được xây trên nền nội cung ngày trước. Đền mới làm lại vào đầu thế kỷ 20, không có di vật cổ, chỉ còn đôi rồng đá ở bậc tam cấp của đền là di vật của đời Trần hoạc Lê Sơ. Trong đền có tượng An Dương Vương bằng đồng mới đúc trong kỳ tái tạo đền này cách nay chừng sáu bảy mươi năm.
Ở trước đền có một cái giếng gọi là giếng Ngọc, người ta kể rằng xưa kia, Trọng Thuỷ vì hối hận mà tự tử chết theo vợ. Người ta cũng nói rằng nếu đem nước giếng này rửa ngọc trai (truyền tích có thuật công chúa Mỵ Châu sau khi chết hoá thành ngọc trai) thì ngọc trở nên sáng hơn bội phần.
Vào những năm gần đây, ngành khảo cổ học Việt Nam còn phát hiện thêm nhiều di vật đồ đá, đồ đồng ở khu vực Cổ Loa gồm có rìu, lưỡi cày, mũi tên đồng, vỏ trấu, xương thú vật và cả trống đồng loại I Hê Giơ. Tất cả những di vật này chứng minh rằng hàng ngàn năm trước khi Thục phán – An Dương Vương tới Cổ Loa dựng kinh đô thì tại nơi này đã có dân cư đông đúc.
Thành cổ Loa trở thành một di tích lịch sử có ý nghĩa, với những kiến trúc đặc sắc, có dịp du lịch Hà Nội bạn hãy tìm hiểu về công trình này nhé.