Người Minh Hương được người dân Miền Nam hiểu là có quê hương tại Trung Quốc, nhiều người dân này có trình độ thủ công cao, kinh tế người minh hương ổn định. Người Minh Hương phát triển dân số qua nhiều thế hệ, lập ra một số bang hội để giữ gìn nguồn gốc quê hương, phong tục tập quán và bí truyền nghề nghiệp, tuy nhiên cũng hoà nhập vào cộng đồng dân tộc Việt ở Nam bộ rất thích ứng tạo thành một xã hội sinh hoạt rất đặc thù tại lãnh thổ phương nam.
hình ảnh: kinh tế người minh hương chùa bà Thiên Hậu
Người Quảng Đông cánh Trần Thượng Xuyên thiên về buôn bán, điển hình nhất là bán tạp hoá, lập nhà hàng ăn quy mô từ nhỏ tới lớn, chuyên biệt một thức ăn hay nhiều món chế biến tuyệt xảo, sinh sôi nảy nở ở khắp vùng Gia Định, Đồng Nai, từ Sài Gòn tới Bà Rịa. Họ cũng phát huy những nghề truyền thống như nghề điêu khắc, khai thác đá, nhất là nghề làm gốm, nổi tiếng tồn tại đến ngày nay như gốm Biên Hoà, Tân Vạn, Lái Thiêu, sản xuất đủ dạng hình sản phẩm, cung ứng đầy đủ cho nhu cầu sinh hoạt của đông đảo quần chúng nam bộ và xuất khẩu ra nước ngoài. Một số người triều Châu, Hẹ sản xuất thực phẩm, làm rẫy (rẫy cải), chế biến thực phẩm (làm bún khô, nấu đậu hũ, nước tương,,,) Những ngành nghề sản xuất này dần dần được phổ biến cho người Việt, do liên hệ huyết mạch hay phát triển nhân công.
Người Phước kiến, Tiều (Triều châu), Hẹ, Cánh Dương Ngạn Địch cũng chuyên về buôn bán các loại hàng xén, thức ăn, chăn nuôi (trâu, bò) Nhưng người Tiều nổi bật phát triển nhanh từ Mỹ Tho lan rộng khắp vùng Châu Thổ sông Cửu Long, xuống bạc liêu và tận cùng Rạch Giá, Cà Mau.
kinh tế người minh hương. người Tiều giỏi về nghề làm công việc nặng (khuân vác gạo, đi nhanh trên đòn dài từ chành, bến xuống ghe chài) giỏi về sửa chữa, chế tạo máy móc, điều khiển ghe tàu, nấu ăn phục vụ tàu khách và đặt biệt là làm rẫy.
Người Tiều phát triển ở đồng bằng sông cửu long đến nỗi đã từ lâu, người dân sông Hậu, nhất là tại Bạc Liêu – Cà Mau, có câu nói: “dưới sông cá chốt trên bờ Triều Châu”. Có Chốt dưới sông luôn “đặc giậc” ở Miền Tây thì trên bờ người Tiều cũng đông như thế.
Sự đông nhiều này ảnh hưởng đến sinh hoạt quần chúng. Người Việt, người Miên, người Tiều gặp gỡ giao dịch với nhau hàng ngày. Ngôn ngữ Tiều trở nên thông dụng, phổ biến trong cách xưng hô pha trộn. Nhiều danh xưng, tiếng của người Việt được thay thế bằng tiếng Tiều: Hoá (tôi), Lứ (nó) Hia (anh), chế (chị), số (chị dâu), củ (ông)…. đã trở thành phương ngữ ngày nay ở miền Tây Nam Bộ ra tới hải đảo Phú Quốc. Về miền sông Hậu, bất cứ người nào cũng được người địa phương chân thành hỏi thăm: Hia (anh) ăn gì không? hoặc chế (chị) hay số (chị dâu) đi đâu ? củ (ông) cần gì?
Ngược lại ở miền đông nam bộ người gốc Quảng Đông có tập quán chào hỏi khá kỳ lạ bất cứ vào lúc nào trong ngày. Ở miền Tây Nam Bộ, từ đầu thế kỷ 20, phụ nhữ ở các địa phương có đông người Triều Châu và Miên cư trú có thể là người Việt chính tông hoặc người “đầu gà đít vịt” là phương ngữ cũng là thuật ngữ dân gian chân chất, hình tượng, có ý nghĩa sâu xa không xấu. Người ta dùng thuật ngữ này trong khi trò chuyện, bàn bạc để chỉ rõ một trạng thái đặt biệt, không có ý phỉ báng.
Thoạt đầu có ý là “đầu gà trống” và “đít vịt bầu”. Đầu gà trống biểu tượng cho người đàn ông, con nhà võ, khoẻ mạnh. “đít vịt bầu” dùng ám chỉ những người phụ nữ có bộ mông lớn, mắn đẻ, sai con. Đây hàm ý về sản phẩm do sự phối ngẫu của “trai anh hùng và gái thuyền quyên”.
Những người phụ nữ “đầu gà đít vịt” không phải là người việt chính tông, và để chỉ người con gái lai cha Tiều, mẹ Miên. Vì hồi xưa, người Tiều mới qua, tìm vợ là gái Miên dễ hơn gái Việt. Vợ Miên cũng chân chất và có duyên. Dù không được trắng trẻo nhưng người phụ nữ Miên có ưu điểm mông to, hông lớn, sinh nở dể và nhất là làm việc nhà siêng năng, chu đáo.
Sự dung hợp giữa hai dòng máu Tiều – Miên tạo nên một người phụ nữ vừa dáng đẹp, vừa đẹp nết, lại cần mẫn, siêng năng mọi việc, những ưu điểm mà bất cứ người chồng nào cũng cần đến. Gái “đầu gà đít vịt” thường được mô tả là mặn mà, chắt nịch, khoẻ mạnh, duyên dáng, giỏi giang, đẻ nhiều con và đặt biệt kỳ lạ là da trắng nõn nà mịn mà chứ không phải đen nâu như làn da của mẹ.
Khi có những người con gái lai như vậy sinh ra nhiều, trai Việt ở chợ cũng thích lấy làm vợ. Cho nên sự phối ngẫu lan rộng ra, từ vĩnh long, Cần Thơ, xuống Sóc Trăng, Bạc Liêu, Long Xuyên, Châu Đốc, Trà Vinh tới Hà Tiên, Rach Giá, Cà mau, kể cả vùng đảo Phú Quốc. Hiện tượng hoà đồng này tạo nên người Miền Tây sông Hậu rất dễ mến, có âm giọng đặc thù, tính tình hoà nhã, chất phác, hiền lành và dáng người dù nam hay nữ rất khả ái.
Tới ngày nay, những họ gốc người Minh Hương đã trở thành họ người Việt Nam sau 300 năm hoà hợp và phát triển như: Phạm, Trần, Lâm, Trác, Trịnh, Phan,… khá đông đảo tại Nam Bộ.
Đăng bởi: du lịch việt