Trong công cuộc khai phá mở rộng lãnh thổ Việt Nam về phương nam đã trải qua một quá trình gian khổ, mồ hôi xương máu của bao thế hệ cha ông ta.
Ông Hồ Sỹ Giàng nhận định tiếp về bối cảnh sống của khởi tổ họ Hồ – Trạng nguyên Hồ Hưng Dật, ở đất giao châu vào thuở ban đầu như sau:
Hồ Hưng Dật sinh ra trong thời loạn. Các tập đoàn phong kiến Trung Quốc xâu xé lẫn nhau, triều chính thối nát, đậu trạng nguyên đáng lý giữ trọng trách trong triều đình, nhưng chỉ nhận chức ở một châu ly xa xôi (hoặc phải lánh nạn và được cử làm quan). Sang đất Giao Châu, thấy dân chúng trong hoàn cảnh loạn ly, các cuộc trangh giành cát cứ xảy ra lien miên, ông đã từ quan tìm nơi lập nghiệp. Ông chọn hương Bào Đột, vừa để lánh nạn, vừa kiếm kế sinh sống lâu dài.
Hình ảnh: Mở rộng Lãnh Thổ Việt Nam liên minh giữa đại Việt và Chiêm Thành.
Nơi ông ở cận sơn, cận thuỷ. Người xưa thường nói: “Nhất cận sơn, nhì cận Giang” là nơi dễ làm ăn. Phía trước có sông Bào (Bào Giang) chảy từ Bào Đột qua Bào Tiên, Bào Hậu ra biển. Phía sau là đồi rừng, đất đỏ bazan màu mỡ. Những dãy núi rừng nhấp nhô chạy dài tận cùng đường Khê thượng (nay là huyện nghĩa Đàn) và phủ Quỳ Châu. Thật là vùng đất hiểm trở, lợi thế dụng vũ rất thích hợp với người ở ẩn.
Vốn là đồng liêu với Đinh Công Trứ (thân sinh Đinh Bộ Lĩnh) ông làm Diễn Châu Thái thú, Đinh Công Trứ làm thứ sử Hoan Châu (gồm 4 huyện, cũng thuộc địa phận tỉnh Nghệ An ngày nay). Vì thế Đinh Bộ Lĩnh có biết ông. Khoảng năm 965, Đinh Bộ Lĩnh dấy binh dẹp các sứ quân ở Châu Diễn đến gặp ông thăm dò xem ông có ý dấy quân hay không. Ông đã thổ lộ với Đinh Bộ Lĩnh chỉ mong làm trọng phận sự của người công dân. Ông góp ý kiến với Đinh Bộ Lĩnh về kế sách thống nhất các sứ quân và để cho Đinh Bộ Lĩnh yên lòng, ông đã giơ kiếm lên thề “vạn đại vì dân” có nghĩa là vạn đời làm dân. Ông lo việc cày ruộng, chiêu mộ dân phiêu tán, lập ấp trại. Trang trại của ông không chỉ ở hương bào Đột mà còn kéo dài tận đường Khê Thượng thuộc tả và hữu ngạn sông Hiếu (huyện nghĩa Đàn ngày nay).
Hồ Hưng Dật lấy Bào Đột làm nơi định cư vĩnh viễn, tổ chức hương làng có quy củ, dân tình sinh sống được ghi vào sổ sách, địa giới phân minh. Hương Bào Đột chính là tiền thân của các hậu duệ phát triển rộng ra khắp vùng Hoan – Diễn, tức vùng Nghệ An- Hà Tĩnh bây giờ.
Tới thế kỷ 13, vào đời nhà Trần, khi quân Nguyên mở 3 cuộc xâm lăng nước ta, ranh giới lãnh thổ phía Nam vẫn còn ở khoảng đèo Ngang. Trước thế lực mạnh mẽ của quân Bắc xâm, hai nước Đại Việt và Chiêm Thành liên kết với nhau. Vua Chiêm Thành Chế mân ngỏ ý cầu hôn công chúa Huyền Trân. Trong chiến tranh, để duy trì thế liên minh này, vua Trần Nhân Tông đã hứa nhận lời. Nhà Trần đánh đuổi được quân Nguyên Mông lần thứ 3, giải toả luôn áp lực tấn kích của quân phương Bắc nhằm vào Chiêm Thành (bằng đường biển), vua Chiêm nhắc lại lời cầu hôn trước và dân hai Châu Ô, Ri cho nước Đại Việt. Lúc bấy giờ vua Trần Nhân Tông nhường ngôi lại cho con, lên làm thái thương hoàng lên ẩn tu trên núi Yên Tử và lập ra Thiền phái Trúc Lâm. Vua Trần Anh Tông, giữ lời hứa của vua cha, gả em gái, công chúa Huyền Trân về làm hoàng hậu nước Chiêm.
Công chúa Huyền Trân được vua Chế Mân đưa đi khắp nước Chiêm Thành, vào vùng Bình Thuận ngày nay, tới khu vực suối nước khoáng Cà Ná, theo truyền thuyết, sau khi vua Chế Mân tắm suối nước khoáng, bệnh phong khó chịu của vua được thuyên giảm, hoàng hậu đặt tên cho suối nước khoáng này là Vĩnh Hảo, có nghĩa là vĩnh viễn diệu kỳ. Công chúa Huyền Trân được xem là người đầu tiên đi sâu vào vùng phía nam nước Chiêm Thành.
Huyền Trân công chúa cũng được coi là người có công lớn đầu tiên giúp nước ta mở rộng lãnh thổ về phương nam. Hai châu Ô và Ri do vua chế mân làm sính lễ, được đổi tên là Thuận Châu và Hoá Châu, nước ta mở rộng tới đèo Hải Vân, nay thuộc các tộc họ đi vào sinh sống ở vùng đất mới khá đông, hoà nhập sinh hoạt, văn hoá, phong tục, tín ngưỡng với người Chiêm bản địa.
Đăng bởi: du lịch việt