Từ khá lâu, sự hình thành miền nam Việt Nam đang được nhiều người dân quan tâm. Để có được sự phát triển bền vững như ngày nay là nhờ phần lớn của sự nổ lực toàn thể người dân, cùng chung tay phát triển và gìn giữ. Miền Tây Nam Bộ từ hàng ngàn năm trước là vùng đất bồi của phù sa sông Mê Công đổ từ miền cao nguyên Tây Tạng Xuống. Vào những thế kỷ đầu công nguyên, miền đất này đã có một vương quốc hùng mạnh theo Ấn Độ giáo cổ.
Hình ảnh: sự hình thành miền nam
Theo truyền thuyết xa xưa, vùng này còn chìm ngập dưới nước biển đông. Sự hình thành của vương quốc Phù Nam bắt nguồn từ một hoàng tử Ấn Độ rời bỏ lãnh địa của mình dẫn đầu một đoàn hải thuyền, trên đó có những người thân tín, tuỳ thuộc đi tìm đất mới ở khu vực biển đông để lập giang sơn riêng và cũng để mở rộng đế quốc của vua cha ở bên bờ Ấn Độ Dương.
Sau nhiều ngày lên đệnh trên biển cả mệnh mông về hướng mặt trời lên, hoàng tử và đoàn tuỳ tùng đã khám phá ra một vùng đảo núi đá và dừng lại quan sát cảnh quan chung quanh. Hoàng tử quyết định chiếm lấy cả vùng này làm dấu chủ quyền bằng đặt tên một núi đảo cạnh bờ đất một tượng đá thần Vishnu được tạc sẵn từ bên nước Ấn Độ chở đem qua.
Hoàng tử bắt đầu lo việc xây dựng lãnh địa. Chổ cát cứ là vùng đất cao mà sau này được tìm thấy ở Óc Eo, Rạch Giá. Hoàng tử không ngờ vùng này đã có chủ. Chủ nhân là một nữ chúa tên là Lưu Yi. Hai người đã kết hợp thành vợ chồng và xây dựng nên một đế chế hùng mạnh, có một nền văn minh sáng chói. Đế quốc này là một trong 3 đế quốc có lực lượng hùng hậu, lãnh thổ rộng lớn vào thời bấy giờ ở lục địa cạnh biển đông. Hai đế quốc kia là Kambuja (đế chế Khmer cổ) và Lâm Ấp (tiền thân của Chiêm Thành và Chăm Pa về sau).
Lúc bấy giờ cũng có những tiểu quốc ở ven biển và ở vùng bình nguyên dưới chân các núi phía nam dãy trường sơn là Bà Lị và thù Nại. Hai tiểu quốc này đều bị đế quốc Phù Nam nuốt chửng, như cá lớn nuốt cá bé.
Tới thế kỷ thứ 6, đến đất nước Phù Nam bị xoá tên do tiểu vương quốc Kambuja (campuchia). Tiểu vương Kambuja từ miền Sambor (tức là Căm Bốt – Phủ Sơn Bồ Cao Miên ) về chiếm kinh đô Vyadhapura, lên ngôi vua (550 – 600). Từ đó quốc gia Kambuja hình thành (sách sử gọi là Chân Lạp hay Cao Miên).
kinh đô Vyadhapura của Kambuja đã nhiều lần chuyển đổi qua các thời đại.
– Chuyến đến Ăngkor còn gọi là Ăngkor Wat, sử sách cũ gọi là Lô Việt.
– Vào năm 1431 chuyển lại là Chaturmakha (Phnom Penh ngày nay).
Năm 1511, kinh đô mới là Lovek (sử sách việt xưa gọi là La Bích hay thành Gò Bích).
Từ năm 1618 đến năm 1867: cung điện ở Oudong đã trở thành kinh đô của nước Miên và các nơi cũ trở thành các tỉnh lỵ của nước Chân Lạp.
hình ảnh: cung điện Oudong
Triều đình Kambuja thưở ấy tổ chức bộ máy nhà nước khá quy cũ. kinh thành có phố xá sầm uất, dân cư đông vui, tuy nhiên đa số tập trung ở vùng đồi, đất cao ở phía bắc có mặt bằng thoai thoải, thung lũng rộng và sông nước mỹ miều, hiền hoà, thoáng mát. Các vùng này thuộc vùng đất trung và Hạ Lào ngày nay, được gọi là Lục Chân Lạp trong các sách cũ của nước ta.
Về sau, Lục Chân Lạp cũng quy tụ một số sắc dân đến cư trú làm ăn buôn bán, trong đó một số người Việt. Có lẽ người việt đến đây đông kể từ khi có cuộc hôn nhân giữa công chúa Ngọc Vạn, con gái chúa Nguyễn Phước Nguyên (1563 -1635) với vua Chân Lạp vào năm 1620, lúc đó sự hình thành miền nam đã đặt nền móng.
Trong cuộc hôn nhân này, theo công chúa Ngọc Vạn về kinh đô Chân Lạp có đoàn tuỳ tùng bao gồm vũ công, quan chức kể cả dân chúng… Những người này được vua Chân Lạp cho phép tự do sinh sống hành nghề hợp pháp trên đất nước Chân Lạp. Phần đông những người này và các thế hệ con cháy về sau của họ tập trung ở phố thị sầm uất là Chân Lạp Vinh (thành phố Nam Vang).
Đăng bởi: du lịch việt